Vô sinh không chỉ riêng ở nữ giới

Khi bị vô sinh (VS), nhiều người thường đổ lỗi cho người mẹ, thực tế có đúng vậy không? Theo nhà triết học vĩ đại aristote đã nói: “Những người đàn ông bệnh tật, nghiện rượu và chơi bời không thể có con”. Với câu nói trên và những tiến bộ của y học ngày nay thì nguyên nhân dẫn đến VS thì không chỉ riêng ai.

Thế nào là VS

Theo quan niệm của các nhà y học cho rằng, VS là tình trạng vợ chồng chung sống với nhau không có thai trong thời gian 2 năm mà không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào. Nhưng ngày nay, theo Tổ chức Y tế thế giới, thời gian này rút ngắn chỉ còn 1 năm. VS được chia làm 2 loại là VS nguyên phát, viết tắt là VS1, nghĩa là chưa có thai lần nào và VS thứ phát (VS2), tức là đã từng có thai ít nhất 1 lần. Ngày nay, nhờ những tiến bộ của khoa học, nguyên nhân gây VS đã lần lượt được làm sáng tỏ, trong đó các nhà khoa học thấy rằng tỷ lệ VS giữa nam và nữ ngang nhau, tỷ lệ đó chiếm khoảng 40%, còn lại 20% là nguyên nhân kết hợp VS do cả vợ lẫn chồng. Có một nghiên cứu khác, các nhà khoa học thấy rằng tỉ lệ gây VS ở nam giới lên đến 45%.

 Ảnh minh họa (Ảnh: corbis)

VS do nữ

Ở nữ giới, muốn có thai, thì tinh trùng phải qua được âm đạo, đi đến gặp được trứng và thụ thụ thai ở 1/3 ngoài vòi trứng, trở thành trứng thụ tinh di chuyển vào buồng tử cung, sau đó trứng sẽ phát triển lên hình thành bào thai. Một trong các quá trình đó hoặc một vài quá trình, gặp trắc trở, thất bại, sẽ gây VS.

Về nguyên nhân gây VS ở nữ giới, thì có rất nhiều, nếu hiểu rõ, có thể đề phòng được. Nguyên nhân thường gặp VS ở nữ giới là có bất thường về giải phẫu cơ quan sinh dục như: hẹp âm hộ-âm đạo hay chỉ có một phần âm đạo, âm đạo có vách ngăn, màng trinh dày, kênh cổ tử cung hẹp, rối loạn chất nhầy cổ tử cung ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng, tử cung kém phát triển, dị dạng tử cung đôi, dầy dính buồng tử cung do nạo hút thai, viêm nhiễm dày dính làm tắc tai vòi, lạc nội mạc tử cung. Nguyên nhân do không có buồng trứng, buồng trứng kém phát triển, suy giảm hoàng thể, không phóng noãn do dùng thuốc tránh thai kéo dài, hội chứng Turner…

Ngoài ra, còn một số nguyên nhân xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày như: do sang chấn tinh thần, lãnh cảm, sợ hãi quá mức nên từ chối sinh hoạt tình dục, suy dinh dưỡng làm rối loạn sản xuất hormone, hút thuốc, uống nhiều rượu, lập gia đình trễ, thường xuyên sử dụng thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, thừa cân hoặc béo phì, hay quá gầy, tập luyện căng thẳng, mắc bệnh lây qua đường tình dục như bệnh chlamydia…

VS do nam

Nguyên nhân từ phía nam giới, thường nhất là do khiếm khuyết từ tinh trùng như: không có tinh trùng, tinh trùng quá ít, tinh trùng di động yếu và tinh trùng dị dạng; xuất tinh ngược dòng, tinh trùng chảy ngược vào bàng quang, sau đó được đi tiểu ra ngoài. Nguyên nhân gây bệnh lý ở tinh hoàn, tinh hoàn teo nhỏ thể tích nhỏ hơn 3ml, tinh hoàn lạc chỗ, teo tinh hoàn do bệnh quai bị, do chấn thương, bệnh lây truyền qua đuờng tình dục có thể làm viêm tắc ống dẫn tinh, thường xuyên nghiện rượu, thuốc lá…

Ngoài nguyên nhân VS do vợ hoặc chồng, còn có một số trường hợp, cả hai vợ chồng đều bình thường về phương diện sinh sản, nhưng tinh trùng người chồng không thích hợp với chất nhầy ở cổ tử cung người vợ, làm cho tinh trùng bị chết và không đi vào đường sinh dục nữ được. Trường hợp này thường được chẩn đoán bằng xét nghiệm sau giao hợp, lấy chất nhầy ở cổ tử cung người vợ vài giờ sau giao hợp, để xem sự di động và khả năng sống của tinh trùng. Hoặc có trường hợp hệ miễn dịch người phụ nữ tạo ra các kháng thể để diệt tinh trùng theo cơ chế đào thải vật lạ.

Vô sinh nam do giảm số lượng tinh trùng.

Phòng ngừa VS

Về phòng VS, vợ chồng cũng có thể thực hiện được một số nguyên nhân.

Đối với nữ giới như giữ vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày trong thời gian có kinh nguyệt, trước và sau khi giao hợp để tránh bị viêm nhiễm bộ phận sinh dục, bởi đây chính là nguyên nhân chính làm tắc vòi tử cung. Tránh để bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nếu có bị mắc các bệnh viêm nhiễm cần điều trị thật sớm, tích cực và triệt để. Nếu có các biểu hiện của việc rối loạn kinh nguyệt, nhất là tình trạng rong kinh kéo dài thì điều trị thật sớm và triệt để, bởi các rối loạn này có thể dẫn đến rối loạn trong quá trình phóng noãn. Tránh hút thuốc, uống rượu bia.

Đối với nam, tránh nghiện rượu bia, thuốc lá, đặc biệt là thuốc lá vì có ảnh hưởng xấu đến khả năng mang thai và trong suốt thai kỳ. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và thấy rằng, hút thuốc lá có hại cho sự hình thành giao tử, có thể bị tổn thương bởi khói thuốc lá, các nhiễm sắc thể mà cả gen di truyền ADN gây ra tổn thương cho tế bào mầm có thể là hậu quả của tiếp xúc với khói thuốc lá. Nam giới hút nhiều thuốc lá sẽ làm giảm số lượng tinh trùng và gia tăng tỉ lệ tinh trùng chết và bất thường hình dạng, chức năng. Mặc dù, tác động của thuốc lá lên khả năng sinh sản của nam giới và tác hại của hút thuốc lá thụ động lên khả năng sinh sản của nữ giới vẫn còn bàn cãi, thì việc hút thuốc lá nên được quan tâm như yếu tố nguy cơ gây VS.

BS. CKI. Trần Quốc Long

(BS. CKI. Trần Quốc Long)

Viêm thận

Triệu chứng bệnh viêm thận - tiết niệu rất thất thường, có khi rất kín đáo nên sản phụ không biết. Bệnh được phát hiện qua một xét nghiệm thông thường. Có khi chỉ là một suy giảm chức năng đã phải chú ý tới tổn thương nhu mô thận. Những biến đổi chức năng của đường tiết niệu dưới rất quan trọng vì viêm nhiễm thường xuất phát từ đây. Mỗi khi sản phụ bị sốt chưa rõ nguyên nhân, ta phải chú ý ngay tới viêm thận - tiết niệu.

Nếu sốt kèm theo rét run, đau lưng và đái buốt thì sản phụ cần đi khám để được điều trị kịp thời. Bệnh viêm bể thận - thận. sẽ khỏi nếu được điều trị sớm kể cả khi viêm nhiễm chưa thật rõ ràng hoặc còn kín đáo. Nếu không điều trị thì tình trạng thai nghén sẽ làm tăng thêm các nguy cơ. Nếu bệnh tái diễn và vi khuẩn cũ tồn tại thì phải nghĩ tới một chướng ngại vật trên đường tiết niệu. Phải siêu âm hoặc chụp X-quang để xác định là u, sỏi hoặc chít hẹp. Những xét nghiệm này còn phải làm lại sau sinh từ 6 - 8 tuần, khi các đường bài xuất đã trở lại trạng thái bình thường.

Ảnh: Gettyimages.com 

Ở phụ nữ mang thai, bệnh viêm thận - tiết niệu sẽ nặng hơn vì các biến đổi sinh lý ở thận và đường tiết niệu của sản phụ đã làm tiên lượng của bệnh xấu đi. Các đường bài xuất nước tiểu bị giãn to do tác dụng của progesteron (nội tiết tố nữ) hoặc do sự chèn ép cơ học của tử cung ngày càng to. Các nhu động của bể thận, niệu quản bị suy giảm nên lưu thông nước tiểu kém. Trong nước tiểu sản phụ, lượng đường thường tăng cao kể cả khi không có bệnh đái tháo đường. Kali huyết của sản phụ hạ thấp do nôn mửa hoặc uống thuốc lợi tiểu. Chính những thay đổi nội tiết trong những ngày đầu mang thai đã làm viêm nhiễm phát sinh và phát triển, ngay cả khi chưa có những biến đổi về giải phẫu của đường bài xuất nước tiểu. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm tăng thêm nguy cơ cho thai nghén. Nếu trước đây sản phụ đã từng bị viêm cầu thận, sỏi tiết niệu hoặc một dị tật bẩm sinh ở đường bài xuất hoặc bị bệnh đái tháo đường thì chắc chắn nguy cơ sẽ lớn hơn nhiều.

Viêm thận - tiết niệu phải được điều trị bằng thuốc kháng sinh. Nhưng dùng kháng sinh gì, trong bao lâu... nhất thiết phải do các thầy thuốc chuyên khoa chỉ định. Lưu ý, không được thông bàng quang cho sản phụ vì dễ gây ra viêm bể thận - thận ngược dòng kéo dài, rất khó điều trị.

Bác sĩ Tống Hồng Nhung

Mang thai, vận động thế nào là hợp lý?

Tôi có thai được 4 tháng, đã đỡ nghén nhưng vẫn rất mệt mỏi. Mọi người trong gia đình luôn bắt tôi phải cố gắng đi bộ mỗi tối để sau dễ sinh con. Xin hỏi bác sĩ có đúng vậy không, nếu có thì nên tập luyện như thế nào?   

Vương Thanh Hà(Hưng Yên)

 Thai phụ cần luyện tập phù hợp với sức khỏe.

 

Khi có thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi do vậy họ phải có một chế độ dinh dưỡng, tập luyện phù hợp. Thực tế tại các bệnh viện phụ sản cho thấy phụ nữ mang thai đến lúc chuyển dạ thường ít cơn co, do vậy phải sử dụng thuốc kích thích hoặc chỉ định can thiệp cho cuộc đẻ. Nguyên nhân chủ yếu là lười vận động. Tuy nhiên mang thai phải vận động như thế nào là hợp lý. Đối với những phụ nữ trẻ, khỏe mạnh bình thường, không có các tiền sử sản khoa xấu (sảy thai, đẻ non, thai chết lưu...) thì mọi sinh hoạt hằng ngày vẫn diễn ra bình thường, chỉ tránh khuân vác những vật dụng nặng, những việc làm gắng sức. 3 tháng đầu của thai kỳ nên vận động nhẹ nhàng hơn vì nguy cơ sảy thai cao, nên vận động nhiều hơn (đi bộ hằng ngày là hình thức phù hợp nhất) vào 3 tháng cuối. Những trường hợp có tiền sử sảy thai, hay có dọa sảy thai thì không nên vận động nhiều. Nếu chị mới có thai 4 tháng và chưa qua hẳn mệt mỏi của giai đoạn nghén thì cần được chăm sóc bồi dưỡng tốt hơn sau đó nên vận động phù hợp với sức khỏe và không nên tập luyện quá sức.

ThS. Nguyễn  Cảnh Chương

Những điều nên tránh sau khi “vượt cạn”

Sinh nở là thiên chức, đồng thời là hạnh phúc của người phụ nữ. Tuy vậy, trong giai đoạn sáu tháng đầu sau khi sinh con, họ nhất thiết phải tránh những điều sau thì mới có thể duy trì sức khỏe và vẻ đẹp của bản thân mình.

Không giữ ấm cơ thể

Mặc kín toàn thân là một việc không dễ dàng đối với sản phụ bị nực sữa, ngay cả những người sinh con vào mùa đông. Hầu hết phụ nữ trong giai đoạn ở cữ đều cảm thấy hết sức nóng nực, nhưng nếu toàn thân không được giữ ấm và kín, sau này rất có thể họ sẽ rơi vào tình trạng “thiên hạ chưa rét thì mình đã rét”.

Thậm chí, có một số người còn phải mặc áo rét giữa tiết trời mùa hè nóng bức. Nhất là vùng bụng của sản phụ, nếu hay bị hở trong thời kì ở cữ, về sau sẽ rất hay bị đau bụng, lạnh bụng.

Ngồi nhiều, luôn cho con bú trong tư thế ngồi

Cơ thể người phụ nữ vừa mới sinh còn yếu, xương cốt vừa phải trải qua một trận “tập dượt” khá nặng nên chưa thể trở lại ngay trạng thái bình thường. Nếu ngồi nhiều sẽ dễ mắc chứng đau lưng kinh niên.

 Sau sinh không nên ngồi nhiều. Ảnh: corbis

Hơn nữa, tử cung bị co thắt mạnh chưa hồi phục, việc ngồi quá nhiều, nhất là ngồi xổm khiến cho tử cung có thể bị sa. Điều này gây nguy cơ đối với sức khỏe cũng như những lần sinh sau của sản phụ. Tốt nhất là nên đi lại nhẹ nhàng 1, 2 lần trong ngày để cơ thể được vận động, từ đó điều hòa khí huyết.

Nói quá nhiều, quá nhanh

Đây là đặc tính của nhiều chị em, rất khó bỏ ngay cả khi vừa sinh con. Tuy nhiên phải quyết tâm, nếu không sẽ có thể mắc phải tật nói líu lưỡi, nói nhịu.

Tẩm bổ quá nhiều

Nhiều phụ nữ thường xuyên lo lắng rằng mình không có đủ sữa cho em bé bú. Vì vậy, họ ra sức ăn thật nhiều mà chủ yếu là ăn những đồ ăn giàu đạm như: móng giò, thịt lợn, thịt gà… Kết quả là thân hình ai nấy đều “nở ra” một cách không thể phanh lại được. Chính điều này sẽ lại biến thành nỗi lo lớn của họ khi sắp sửa đi làm trở lại.

Ăn ít rau củ và hoa quả

Đối với cơ thể sản phụ cũng như em bé, nguồn vitamin và khoáng chất có dồi dào trong hoa quả và rau củ là vô cùng cần thiết. Nó giúp cho hai mẹ con có được sức đề kháng tốt hơn, da dẻ hồng hào và mịn màng hơn. Do đó, thực đơn dành cho sản phụ nhất thiết phải được cân đối giữa phần thức ăn giàu đạm với rau, củ, quả giàu vitamin.

Kiêng tắm gội quá lâu

Mặc dù rất khó chịu do cả ngày sữa chảy đầm đìa, mồ hôi nhễ nhại nhưng chị em vẫn cố nhịn tắm gội vì kiêng. Thực ra chỉ cần kiêng tắm gội trong khoảng một tuần, nhưng trong thời gian này sản phụ nên lau người nhẹ nhàng và thay quần áo thường xuyên.

Kiêng tắm rửa quá lâu sẽ càng làm cho sản phụ thêm mệt mỏi, thậm chí ăn không ngon, ngủ không yên, khó có thể có đủ sức lực để chăm sóc em bé. Như vậy mới là yếu tố dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe sau này.

Quá lo lắng về vóc dáng mình

Ai sinh con cũng đều có sự thay đổi về vẻ ngoài, không nhiều thì ít. Nhưng đó chỉ là giai đoạn ban đầu, nếu chịu khó tập luyện, bạn hoàn toàn có thể lấy lại một cơ thể săn chắc. Hơn nữa, thực tế cho thấy, đa phần phụ nữ sau khi sinh con đều đẹp lên, đó là sự mặn mà của “bông hoa vừa khai hoa nở nhụy”. Cho nên bạn đừng quá lo lắng sẽ dễ bị stress, chính điều này có thể làm cho bạn xấu đi đấy.

Ngại “gần gũi” chồng

Phải thừa nhận rằng sản phụ nào cũng rất bận rộn, mệt nhọc vì phải lo cho em bé. Nhưng đừng quên còn một “em bé trong hình hài người đàn ông” của chúng ta cần được quan tâm, chăm sóc và chia sẻ. Họ là những người phải giữ trọng trách trụ cột gia đình, trong khi việc có thêm em bé sẽ khiến cho gánh nặng về kinh tế càng tăng. Nhiều phụ nữ từ khi có con do quá mãi chăm sóc con mà xao nhãng “chuyện ấy” với chồng là điều không nên, vì hậu quả của nó đôi khi rất khó lường.

Quên bổ sung các vi chất cần thiết

Đó là các chất sắt, canxi, vitamin A, D… chỉ trông đợi từ nguồn thức ăn hàng ngày là không đủ, mà sản phụ cần bổ sung những vi chất này thường xuyên, bằng cách dùng thuốc từ giai đoạn mang thai cho đến nhiều tháng sau khi sinh.

Những sản phụ nuôi con bằng sữa mẹ lại càng cần phải chú ý điều này, vì ngoài nhu cầu cho cơ thể mẹ còn phải “chia” cho cả em bé. Nếu không, lượng sữa tiết ra hằng ngày sẽ “rút” dần những chất này của người mẹ đến mức cạn kiệt. Cơ thể thiếu nhiều loại vi chất rất khó có thể hồi phục lại sức khỏe ban đầu, nguy hiểm hơn có thể để lại những biến chứng về sau.

Suốt ngày ở trong phòng kín

Cho dù là mới sinh, người phụ nữ cũng rất cần được thường xuyên tiếp xúc với bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Vì thế, không nên nhốt mình cả ngày ở trong buồng mà thỉnh thoảng phải đi ra những chỗ không khí được lưu thông. Chỉ cần chú ý tránh những nơi hút gió hay có gió lùa.

Cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất
 

Đây là mẫu, bạn có thể sửa lại ảnh, màu nền, kích cỡ của bảng tùy theo nhu cầu.

Bên cạnh đó, cần phơi nắng sớm hàng ngày (trước 9 giờ sáng), cho cả mẹ và con là tốt nhất, kết hợp với tập thể dục nhẹ nhàng.

BS. Lê Khánh Vân

(BS. Lê Khánh Vân)

Phòng tránh tắc tia sữa

Cháu tôi mới sinh con được 15 ngày, cháu đã có sữa nhưng ít và kêu đau, tức ngực, có phải cháu bị viêm tắc tia sữa không? Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân, cách phòng tránh?

Vũ Thị Huyền(Lạng Sơn)

Viêm tắc tia sữa là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa khi phụ nữ cho con bú. Hay gặp ở phụ nữ sinh con đầu lòng. Triệu chứng điển hình là bầu vú sưng, nóng, đau, sốt. Nguyên nhân là do khi mang bầu không vệ sinh đầu vú, không day đều bầu sữa để thông tia sữa ngay sau khi sinh con. Trẻ bú quá ít khiến sữa bị ứ đọng gây ôi, tắc. Để không bị tắc tia sữa, người mẹ phải giữ thật sạch đầu vú, nhất là ở các kẽ của núm vú. Trước khi cho trẻ bú phải lau sạch và vắt một vài giọt sữa đầu bỏ đi, khi bú xong lại phải lau sạch, khô. Khi thấy sữa chảy không thành tia hoặc có tia bị tắc thì phải dùng tay xoa vú cho mềm, dùng ống hút sữa hoặc dùng tay vắt mạnh để thông sữa. Có thể dùng khăn ấm hoặc túi chườm nóng kết hợp với day ép để tăng nhanh hiệu quả điều trị. Khi thực hiện như trên mà không thấy có kết quả, nhất là khi thấy vú sưng đỏ, sốt cao thì phải tới bác sĩ chuyên khoa khám để tránh bị áp-xe vú.

BS. Phương Thu

Có phải do nhiễm khuẩn âm đạo?

Khi âm đạo có nhiều dịch, dịch giống như mủ, có mùi hôi và âm đạo đau khi thăm khám, thường đã bị bệnh lây truyền qua đường tình dục...

Vi khuẩn Chlamydia trên kính hiển vi. 

Xuất tiết ở âm đạo được coi là bình thường khi dịch đó có màu trắng hay như sữa, không mùi, không màu, không gây ngứa, rát và không làm khô cứng quần lót. Chính dịch âm đạo bình thường là phương tiện để cơ thể tự làm sạch âm đạo; lớp tế bào chết trên thành âm đạo cũng giúp cho tiến trình tự làm sạch. Lượng dịch âm đạo và màu sắc dịch thay đổi theo từng thời kỳ trong chu kỳ kinh và trong từng giai đoạn của thai nghén.

Hầu hết phụ nữ đều có 1 lần trong đời bị viêm nhiễm âm đạo và 9/10 số đó là do nấm hay vi khuẩn, 1/10 là do trùng roi.

Có 6 thể viêm âm đạo thường gặp nhất là:

Viêm âm đạo do nấm: Thường gặp do một trong số các chủng nấm có tên là Candida gây ra. Nhiễm nấm làm cho dịch âm đạo đặc lại, dai dính, cũng có thể hơi lỏng nhưng không có mùi, âm hộ và niêm mạc âm đạo thường đỏ, rất ngứa.

Viêm âm đạo do loạn khuẩn: Do sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn chứ không phải là nấm khi môi trường âm đạo bị mất cân bằng, nhưng nguyên nhân đích thực của sự phát triển quá mức các loại vi khuẩn vẫn chưa rõ. Viêm âm đạo này là thể hay gặp nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Thường ra khí hư có màu trắng như sữa và mỏng, có mùi hôi như mùi cá ươn, càng rõ hơn sau quan hệ tình dục. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là nhiều phụ nữ bị bệnh nhưng lại không có triệu chứng gì, chỉ được chẩn đoán khi đi khám phụ khoa theo thông lệ. Điều trị phức tạp hơn vì có nhiều loại vi khuẩn phối hợp.

Viêm âm đạo do trùng roi, do Chlamydia và do virut: Nếu do trùng roi: khí hư màu vàng, thường có mùi hôi, ngứa và đau ở âm đạo và âm hộ, đái buốt, có thể có cảm giác khó chịu ở bụng dưới và đau ở âm đạo khi giao hợp - những triệu chứng này có thể tăng lên sau giai đoạn hành kinh. Tuy nhiên cũng có nhiều phụ nữ không thấy có triệu chứng gì. Bệnh có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục. Để điều trị có hiệu quả, cần đồng thời chữa cho cả bạn tình.

Thể viêm âm đạo do Chlamydia: Nhiều phụ nữ mắc nhưng hầu hết không biểu hiện triệu chứng gì, vì thế chẩn đoán khó khăn. Thể viêm âm đạo này đôi khi không gây ra khí hư, nhiều phụ nữ chỉ thấy ra máu chút ít, nhất là sau khi quan hệ tình dục, đau bụng dưới và vùng tiểu khung.

Viêm âm đạo do virut: Virus herpes I và II gây mụn rộp sinh dục với những tổn thương nhìn thấy ở âm hộ, âm đạo. Khi nhiễm loại virut này thường kèm theo stress hoặc những biến động về cảm xúc. Một loại virut khác là HPV - virut gây u nhú ở người, cũng lây truyền do quan hệ tình dục, làm mọc ở âm hộ, âm đạo, vùng cổ tử cung (có khi cả trực tràng và bẹn) một hoặc nhiều u nhú không cuống, không đau.

Viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: Nguyên nhân thường gặp là do dị ứng với thuốc, do bơm rửa hoặc do thuốc diệt tinh trùng. Vùng da quanh âm đạo nhạy cảm với xà phòng, chất tẩy trắng và chất làm mềm vải. Phụ nữ tuổi mãn kinh hoặc bị cắt 2 buồng trứng có sự suy giảm hormon, bị khô hoặc "teo" âm đạo cũng có những triệu chứng của thể viêm âm đạo không do nhiễm khuẩn: đau, nhất là khi quan hệ tình dục, ngứa và nóng rát.

Mặc dầu mỗi nguyên nhân gây ra viêm này có thể có những triệu chứng khác nhau nhưng người phụ nữ không dễ dàng nhận ra mình mắc thể bệnh nào, trong thực tê, nhiều khi những thầy thuốc có kinh nghiệm cũng có thể gặp khó khăn chẩn đoán do hơn một thể bệnh cùng kết hợp. Nhiều khi viêm âm đạo lại không biểu hiện triệu chứng gì.

Vì tính chất phức tạp của chẩn đoán các nhiễm khuẩn âm đạo, cho nên thầy thuốc không thể chỉ dựa trên sự mô tả của người bệnh mà cần trực tiếp quan sát dịch, niêm mạc âm đạo và khám vùng tiểu khung, làm một số xét nghiệm.         

BS. Xuân Anh

Nhiễm độc thai nghén

Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý diễn ra trong thời gian mang thai, thường xảy ra vào tuần mang thai thứ 21 và hay xuất hiện ở người chửa con so, đa thai hoặc đa ối. Biểu hiện thường thấy là: phù, tăng huyết áp, đái albumin (xét nghiệm nước tiểu có albumin).

Tình trạng nhiễm độc thai nghén thường từ nhẹ đến nặng. Đầu tiên xuất hiện phù nề chi dưới, cân nặng cơ thể, tăng cân quá nhiều (1 tuần có thể tăng 0,5-1kg). Tiếp đó xuất hiện tăng huyết áp và albumin niệu. Nhiễm độc thai nghén mức độ nhẹ, được điều trị kịp thời thì không gây nguy hiểm đối với bà mẹ và thai nhi. Nếu không được khám và điều trị kịp thời thì triệu chứng sẽ nặng dần, người bệnh xuất hiện nhức đầu hoa mắt, tức ngực, nôn, ù tai... thậm chí co giật, choáng ngất, ngã vật, thân thể cứng đờ, sùi bọt mép (tình trạng này được gọi là sản giật). Cơn sản giật có thể liên tục dẫn đến mê man bất tỉnh, thậm chí tử vong. Nhiễm độc thai nghén có thể gây co thắt mạch máu toàn thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cung cấp ôxy và dinh dưỡng dẫn đến tình trạng thai nhi chậm phát triển trong tử cung, thai nhi yếu nếu nhẹ hoặc thai nhi chết trong tử cung nếu sản giật không được xử trí kịp thời.

 

Vì vậy phải điều trị kịp thời khi có nhiễm độc thai nghén:

- Kể từ khi bắt đầu mang thai, bà mẹ phải khám và kiểm tra thường xuyên, sớm phát hiện bất thường để chữa trị kịp thời.

- Trong thời gian mang thai, cần chú ý nghỉ ngơi nhiều hơn, không lao động chân tay quá sức, chế độ ăn tăng cường chất dinh dưỡng, thường xuyên bổ sung protein và vitamin, ăn giảm lượng muối.

- Khi phát hiện có phù, tăng cân nhanh hoặc các dấu hiệu bất thường thì phải đến khám ngay tại các cơ sở y tế (cân nặng, đo huyết áp, nghe tim thai, siêu âm thai...).

Khi đã xác định nhiễm độc thai nghén thì phải điều trị theo chỉ định của thầy thuốc. Tăng thời gian nghỉ ngơi, giảm ăn muối. Nếu bệnh nặng thì phải được điều trị tại bệnh viện.

Điều quan trọng để phòng tránh nhiễm độc thai nghén là vợ chồng phải cùng nhau học hỏi những kiến thức cơ bản về mang thai, sinh đẻ và nuôi con cũng như biết cách giữ gìn sức khỏe để hôn nhân hạnh phúc.

Bác sĩ Nguyễn Thị Phương

(Bác sĩ Nguyễn Thị Phương)